Ngũ Hồ hỗn chiến Ngũ Hồ thập lục quốc

Năm 315
  Đại
Năm 330
  Đông Tấn
  Thành Hán
  Tiền Lương
  Đại
  Mộ Dung bộ
Năm 351
  Đông Tấn
  Tiền Lương
  Đại
Năm 369
  Đông Tấn
  Tiền Tần
  Tiền Lương
  Đại
Năm 376
  Tiền Tần
  Đông Tấn

Tiền Triệu - Hậu Triệu

Một bộ tướng của cha con Lưu Uyên - Lưu Thông là Thạch Lặc, người tộc Yết, trong quá trình giúp Hán Triệu diệt nhà Tấn, đã tranh thủ phát triển thế lực riêng.

Sau khi diệt được Tây Tấn, Lưu Thông không chú tâm đến chính sự, chỉ chơi bời hưởng lạc, việc triều đình bị Cận Chuẩn (靳準) thao túng. Năm 318, Thông quá ham tửu sắc mà chết, con là Lưu Xán lên thay. Cận Chuẩn nắm quyền lấn át Xán, lộng hành phế truất giết Xán, tàn sát con cháu Lưu Uyên và Lưu Thông. Một người con nuôi của Lưu Uyên là Lưu Diệu đang cầm quân ngoài mặt trận, kéo về kinh đô Bình Dương (Sơn Tây) diệt Cận Chuẩn. Lưu Diệu được một số lớn đại thần ủng hộ đưa lên ngôi đế, đặt quốc hiệu là Triệu, còn gọi là Tiền Triệu. Lúc đó các tộc Hồ tràn xuống Trung Nguyên rất nhiều. Lưu Diệu lên ngôi, bình định dẹp hết sự phản kháng của các dân tộc thiểu số như Chi, Khương, Ba, Yết. Để củng cố quyền thống trị, ông chia rẽ tộc Hồ và Hán và lợi dụng một số phần tử thượng tầng dân tộc để cai trị dân tộc ấy.

Cùng lúc Lưu Diệu diệt Cận Chuẩn, tướng Thạch Lặc cầm quân ở ngoài cũng ra mặt xưng vương, ly khai Tiền Triệu, cũng đặt tên nước là Triệu, sử gọi là Hậu Triệu.

Vì giới thống trị chính trị hủ bại, nội bộ Tiền Triệu mâu thuẫn gay gắt, cơ bản quốc gia hoàn toàn bất ổn. Năm 329, Lưu Diệu bị Thạch Lặc đánh bại, bắt sống và giết chết. Nước Hán Triệu mất.

Tiền Lương - Tiền Yên - Bắc Đại

Trong khi Ngũ Hồ xâu xé đất đai Trung Nguyên, một tướng vùng biên phía tây của nhà Tây Tấn là Trương Quỹ coi giữ Lương Châu, không hàng phục các chính quyền Ngũ Hồ, tự giữ bờ cõi cai trị và vẫn dùng niên hiệu nhà Tấn. Tới khi Trung Nguyên cơ bản mất về tay Ngũ Hồ, ông tự lập làm Lương Vương, lập ra nước Tiền Lương, định kỳ vẫn sai người đi sứ tới Kiến Khang xin lệnh nhà Đông Tấn.

Dòng họ Trương Quỹ cai trị Tây Lương rất được lòng dân, truyền được 9 đời kéo dài hơn 70 năm, một thời gian dài trong số 16 nước thời đó.

Trong khi đó tại vùng phía bắc và đông bắc có đông người Tiên Ty sinh sống, trong đó có họ tộc Mộ Dung và họ Thác Bạt lớn mạnh.

Họ Thác Bạt trấn trị phía bắc, xen lẫn với người Hung Nô. Cuối thời Tây Tấn, thủ lĩnh Thác Bạt Y Lô có công cùng thứ sử U châu nhà Tấn là Vương Tuấn đánh lui vài cuộc tấn công của quân Hán Triệu do Thạch Lặc chỉ huy. Vì vậy, Y Lô được nhà Tấn phong làm Đại Công, cai trị đất Đại. Khi Tiền Triệu và Hậu Triệu lấy gần trọn trung nguyên, họ Thác Bạt xưng vương, lập ra nước Bắc Đại.

Ở phía đông bắc, họ Mộ Dung cũng nhân lúc hai nước Triệu hỗn chiến và nhà Tấn nép xuống phía nam để phát triển lực lượng. Năm 337, Mộ Dung Hối lập ra nước Tiền Yên.

Hậu quả từ sự tan rã của Hậu Triệu: Tiền Tần

Tới giữa thế kỷ 4, phía bắc Trung Quốc có một loạt biến động dẫn tới sự diệt vong của hàng loạt quốc gia Ngũ Hồ và thay vào đó là sự ra đời của một loạt nước khác.

Sau khi diệt Tiền Triệu, Hậu Triệu trở thành nước lớn nhất miền bắc, tuy chưa diệt được Thành Hán, Tiền Yên và Tiền Lương nhưng vẫn hay can thiệp vào Bắc Đại. Thạch Lặc rất chú trọng xây dựng chính quyền, tiếp thu văn minh Hán tộc. Năm 333, Thạch Lặc chết, quyền hành rơi vào tay em Lặc là Thạch Hổ. Hổ giết hết con cháu Lặc, tự xưng làm vua. Nhưng Hổ là bạo chúa, tàn sát rất nhiều quan lại rồi cả con cháu của mình. Ông còn xây dựng tràn lan, cướp cả vợ con người khác để hoang dâm vô độ, nhân dân chết đói rất nhiều.

Do vậy các dân tộc nổi dậy phản kháng không ngừng. Các con trai Thạch Hổ tranh quyền. Thái tử Thạch Tuyên giết Thạch Thao, Thạch Hổ giết Thạch Tuyên. Năm 349, Thạch Hổ chết, chính quyền rơi vào tay con nuôi Hổ là Thạch Mẫn (vốn tên là Nhiễm Mẫn, là người Hán). Mẫn giết hết con cháu Thạch Hổ, tự lập làm vua, đặt tên nước là Nguỵ, tức là nước Nhiễm Nguỵ. Một người trong hoàng tộc Hậu Triệu là Thạch Chi tự lập ở Tương Quốc. Nhiễm Mẫn đánh bại bức hàng tướng của Chi là Lưu Hiển, sai Lưu Hiển đánh giết Thạch Chi. Hậu Triệu mất.

Tuy nhiên Nhiễm Mẫn hung hăng không được bao lâu. Có trong tay binh hùng tướng mạnh, Nhiễm Mẫn diệt Hậu Triệu. Năm 352, Nhiễm Mẫn mang quân đánh Tiền Yên, đánh chiếm hơn nửa đất Yên, sắp thống nhất miền bắc. Biết Nhiễm Mẫn kiêu ngạo chủ quan khinh địch, Yên vương Mộ Dung Tuấn dùng kế bắt sống được Mẫn chém chết. Nước Nhiễm Ngụy tồn tại chỉ hơn 2 năm.

Năm 347, quyền thần Đông Tấn là Hoàn Ôn mang quân diệt nước Thành Hán của Lý Thế (cháu Lý Hùng).

Khi Hậu Triệu tan rã, một loạt các tù trưởng các bộ tộc người Chi, người Khương ra sức tự lập. Năm 350, một tướng cũ của Hậu Triệu, người tộc Chi (hay Đê) là Bồ Hồng chiếm giữ Quan Trung, lập ra nước Tiền Tần, đổi ra họ Phù. Khi đó Hậu Triệu chưa mất hẳn, Phù Hồng bị tướng Hậu Triệu là Ma Thu đầu độc chết, con là Phù Kiện lên thay.

Năm 351, đại tướng Hoàn Ôn của Đông Tấn sau khi diệt Thành Hán lại mang quân đánh Tiền Tần. Phù Kiện bỏ Trường An chạy, nhưng lại dùng kế "vườn không nhà trống", đốt hết lúa ngoài đồng khiến quân Đông Tấn bị đói. Hoàn Ôn buộc phải rút quân về.

Tạm yên mặt nam, Phù Kiện tấn công về phía đông, tranh giành đất cũ của Hậu Triệu và Nhiễm Ngụy với Tiền Yên. Về cơ bản, sau năm 352, Trung Nguyên nằm trong tay Tiền Tần và Tiền Yên, phía bắc xa xôi là Bắc Đại, phía tây xa xôi là Tây Lương (Tiền Lương).

Năm 355, Phù Kiện chết, con là Phù Sinh lên thay. Phù Sinh sinh ra đã chỉ có 1 mắt, rất tàn nhẫn, sát hại nhiều quan lại và người trong họ, hễ những người này lỡ phạm phải những chữ "một", "thiếu" "lẻ"... vì Sinh cho rằng ám chỉ đến tật một mắt của mình. Vì thế lòng người chán ghét Sinh. Năm 357, em họ Sinh là Phù Kiên giết Sinh lên thay, trở thành một trong những vua nổi tiếng nhất thời Ngũ Hồ.

Nhờ chính sách hòa hợp dân tộc, thu hút nhân tài người Hán, Tiền Tần dưới tay Phù Kiên lớn mạnh rất nhanh. Năm 371, Kiên đánh bắt sống vua Tiền Yên là Mộ Dung Vĩ[4]. Tới năm 376, bức hàng nước Tây Lương của Trương Thiên Tích. Sau đó, nhân khi Bắc Đại có tranh chấp nội bộ, Phù Kiên diệt Bắc Đại, chia đất làm hai. Về cơ bản, lần đầu tiên Phù Kiên thống nhất toàn miền bắc Trung Quốc kể từ năm 304.